Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016

Có phải Trung Quốc đang sụp đổ?

Hương Trà (gt)

NCBĐ - Sự không chắc chắn về nền kinh tế Trung Quốc đang khuấy động các thị trường tài chính toàn cầu. Nhưng mối đe dọa đối với các triển vọng dài hạn của Trung Quốc cũng như với sự ổn định kinh tế toàn cầu nghiêm trọng đến mức nào?

Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cộng sản Trung Quốc

Sự lao dốc chóng mặt gần đây trên các thị thường chứng khoán Thượng Hải và Thâm Quyến đã đem lại một bài kiểm tra độc đáo cho các nhà lãnh đạo cộng sản của Trung Quốc. Chừng nào các thị trường còn đi lên, nghịch lý của sự phát triển tư bản chủ nghĩa mạnh mẽ được giám sát bởi đảng cộng sản lớn nhất và mạnh nhất trên thế giới chỉ khiến các học giả và người theo chủ nghĩa Marx truyền thống bối rối. Trong khi giới tinh hoa Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và người thân của họ, các thể chế tài chính nước ngoài và một số nhà đầu tư nhỏ người Trung Quốc (được tạo điều kiện bởi cho vay ký quỹ) kiếm tiền trên thị trường chứng khoán, không ai buồn nhìn nhận thấu đáo sinh vật đột biến mà họ đang “vắt sữa”.

Nhưng giờ đây, khi đã nhận ra rằng giá chứng khoán Trung Quốc sẽ không tiếp tục tăng mãi mãi, ĐCSTQ đang thực hiện những biện pháp tuyệt vọng, nếu không nói là vụng về, để kiểm soát sự điều chỉnh. Tất cả các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) mới đều bị ngừng lại, và nhiều giao dịch đã bị hạn chế; Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã được đề nghị giúp đỡ Công ty chứng khoán tài chính Trung Quốc (China Securities Finance Corporation) thuyết phục các nhà đầu tư mua cổ phiếu và qua đó ổn định thị trường. Quả thực, ngay cả quỹ đầu tư quốc gia của đất nước cũng tham gia.

Nhưng không giống như trong các nền kinh tế tư bản khác, tiền không phải là công cụ duy nhất nhà cầm quyền có trong tay. Nếu các nhà môi giới của bạn tại Trung Quốc khuyên bạn bán cổ phiếu, họ phải cẩn thận để không bị coi là những kẻ phao tin đồn nhảm, và phải chịu sự trừng phạt của chính quyền. Và có những báo cáo cho biết hoạt động bán cổ phần lớn có thể châm ngòi cho các cuộc điều tra của chính quyền. Gây rối loạn trật tự công cộng hay bất ổn tài chính có thể là một tội danh nghiêm trọng ở Trung Quốc, nơi đầy rẫy các thuyết âm mưu về những nỗ lực của nước ngoài nhằm làm suy yếu nền kinh tế.

Điều các quan chức Trung Quốc khao khát là một thị trường chứng khoán theo chủ nghĩa tư bản mà không có khả năng xảy ra những thua lỗ lớn có thể làm lung lay niềm tin vào sự tín nhiệm và kiểm soát của ĐCSTQ. Nhưng đó là một thị trường mà chưa ai phát minh ra.

Cảnh tượng một chế độ cộng sản cố gắng vực dậy một thị trường tư bản giống như sòng bạc chỉ là một trong số nhiều mâu thuẫn đang tích lũy tại hầu hết mọi ngóc ngách của nền kinh tế và chính trị Trung Quốc. Và giờ đây, sức nặng của chúng có lẽ đang trở nên quá mức để hệ thống đảng có thể chống đỡ.

Quả thực, chính thành phần cấu tạo nên ĐCSTQ cũng là một mâu thuẫn. Đảng cách mạng của nông dân và công nhân hiện đang bị các doanh nhân, sinh viên và các nhà chuyên môn thống trị. 1/3 số người được liệt kê trong Báo cáo Hurun, một tạp chí có trụ sở tại Thượng Hải chuyên theo dõi những người giàu nhất Trung Quốc, là đảng viên Đảng Cộng sản. Tài sản trung bình của 70 thành viên giàu nhất trong Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc, tức Quốc hội Trung Quốc, đã vượt qua mức 1 tỷ USD. (Tài sản của 70 thành viên giàu nhất trong Quốc hội Ấn Độ hoặc thậm chí trong Quốc hội Mỹ, cả hai cơ quan này đều do các đảng phái chính trị cánh hữu kiểm soát hiện nay, đều ít hơn đáng kể).

Đương nhiên nỗ lực gần đây của Chủ tịch Tập Cận Bình chống lại nạn tham nhũng ở mọi nơi đã khiến nhiều nhân vật quyền thế trong đảng Cộng sản lo sợ. Nhưng rất nhiều câu hỏi được đưa ra là liệu các cáo buộc tham nhũng chống lại cái gọi là “các con hổ” có phải là một sự che đậy không đầy đủ cho một sự thanh lọc theo kiểu cũ đối với các đối thủ của Tập Cận Bình trong đảng và quân đội hay không.

Người dân Trung Quốc bình thường nhìn chung ủng hộ nỗ lực chống tham nhũng; chính họ là những người thường khởi đầu các cuộc biểu tình và buộc tội các quan chức không trung thực. Nhưng nếu các cuộc biểu tình như vậy thu hút quá nhiều sự chú ý, nhiều khả năng chúng sẽ bị đập tan và các lãnh đạo biểu tình sẽ bị đàn áp hơn là nạn tham nhũng được ngăn chặn. Ví dụ, vào năm 2008, sau trận động đất Tứ Xuyên, hàng nghìn trẻ em đã thiệt mạng khi các ngôi trường được xây dựng với chất lượng kém sụp đổ. Trong một thời gian, những câu chuyện về nạn tham nhũng trong việc xây dựng trường học đã chi phối thậm chí cả tin tức chính thống. Tuy nhiên, cuối cùng chính các phụ huynh và giáo viên của những đứa trẻ này đã bị nhà nước bắt giữ và quấy nhiễu khi tham gia biểu tình.

Cái mà ĐCSTQ từ chối công nhận là nạn tham nhũng không thể được loại bỏ hoàn toàn chừng nào đảng còn duy trì sự sự độc quyền của mình đối với quyền lực chính trị; không có phe đối lập được tổ chức hay các thể chế xã hội-dân sự hoạt động đúng chức năng, các quan chức sẽ tiếp tục sử dụng vị thế quyền lực công của họ như là một phương tiện để tạo ra của cải cá nhân. Kỳ họp lần thứ ba của Đại hội đảng lần thứ 18 đã trao cho nguyên tắc cạnh tranh thị trường vị trí hàng đầu; nhưng như một giám đốc ngân hàng cao cấp của Trung Quốc bình luận trong một bối cảnh có liên quan vài năm trước: “Hoàn toàn khó mà cạnh tranh khi bạn đấu với trọng tài”.

Nhận định này còn mở rộng tới pháp trị và chủ nghĩa hợp hiến. Dưới thời ông Tập Cận Bình, ĐCSTQ đã liên tục nhấn mạnh rằng pháp trị là một “giá trị xã hội chủ nghĩa cốt lõi” và cam kết thúc đẩy quyền lực của hiến pháp. Nhưng pháp trị trong mắt đảng Cộng sản là một đạo luật mà đảng này chỉ định, diễn giải và thực thi. Những ám chỉ của người dân Trung Quốc về hiến pháp (đặc biệt là điều 35 đảm bảo tự do ngôn luận, báo chí, hội họp và lập hội) và chủ nghĩa hợp hiến nhìn chung thường xuyên bị kiểm duyệt, và các luật sư trích dẫn hiến pháp tại tòa án thường xuyên bị cản trở.

Mao Trạch Đông đã nghiên cứu về bản chất của mâu thuẫn trong một bài tiểu luận năm 1937: “Quy luật của mâu thuẫn trong vạn vật, mà chính là quy luật về tính thống nhất của các mặt đối lập, là quy luật cơ bản của tự nhiên và xã hội”. Tuy nhiên, ai đó sẽ tự hỏi liệu ngay cả ông có thể hiểu thấu được, chứ chưa nói tới quản lý, các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cộng sản hay không.

Đối mặt với sự đình trệ kéo dài tại Trung Quốc

Sự đình trệ kéo dài đang dần hiện ra trên khắp thế giới, và Trung Quốc không phải là một ngoại lệ. Trên toàn cầu, kích thích tài chính và tiền tệ chưa từng thấy sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã khiến giá nợ, cổ phiếu và bất động sản tăng lên đỉnh, ngay cả khi thương mại và đầu tư suy giảm; tất cả những điều này đã làm giảm sút nhu cầu, tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Đối với Trung Quốc, việc này đang làm phức tạp các nỗ lực của chính quyền nhằm tăng cường vai trò của các lực lượng thị trường trong việc định hình kết quả kinh tế. Liệu bước đi mới nhất của chính quyền – phá giá đồng nhân dân tệ – có đủ để đảo ngược xu hướng?

Chắc chắn là các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thể hiện cam kết nhường lại một phần sự kiểm soát đối với nền kinh tế, ra dấu hiệu cho các doanh nghiệp rằng họ phải thích nghi với một “sự bình thường mới” của lợi nhuận sản lượng đi xuống, khi đất nước theo đuổi các cải cách cơ cấu nhằm thiết lập một mô hình tăng trưởng bền vững hơn. Nhưng nguy cơ đang gia tăng – được phản ánh trong sự lao dốc gần đây trên thị trường chứng khoán Trung Quốc – đã buộc chính phủ phải can thiệp để hạn chế hậu quả. Và với sự không chắc chắn về chính sách và sự không ổn định của thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp Trung Quốc giữ lại, thay vì đầu tư, số dư tiền mặt lớn, áp lực của đình trệ kéo dài đang trở nên gay gắt hơn.

Tình thế của Trung Quốc, tuy còn xa mới bị coi là tồi tệ, nhưng cũng chứa đầy thử thách. Tuy tăng trưởng GDP thực hàng năm dường như đã ổn định ở mức khoảng 7%, gần như mọi chỉ số kinh tế quan trọng – ví dụ như GDP danh nghĩa, đầu tư tài sản cố định, diện tích mặt sàn đang được xây dựng, doanh số bán lẻ danh nghĩa, doanh số bán lẻ ôtô, sản lượng điện, hàng hóa chuyên chở bằng đường sắt và nhập khẩu quặng sắt – đều nằm dưới mức tăng trưởng trung bình 4 năm của chúng.

Trong 7 tháng đầu năm 2015, tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc giảm 7,3%; với xuất khẩu và nhập khẩu lần lượt giảm 8,8% và 8,6% trong tháng 7. Chỉ số giá sản xuất (PPI) đã giảm trong 42 tháng liên tiếp, xuống mức thấp kỷ lục là -5,4% trong tháng 7. Và dự trữ ngoại tệ cũng giảm xuống mức 3.650 tỷ USD vào tháng 7, từ mức đỉnh 3.990 tỷ USD cách đây một năm.

Trong một thời gian, các nỗ lực của chính phủ để thúc đẩy khu vực dịch vụ, cùng với sự gia tăng mức lương, đã giúp kích thích tiêu dùng nội địa và ngăn chặn giảm phát. Những yếu tố như vậy đóng góp vào sự lạc quan về lợi ích sớm từ cải cách của những người đầu cơ giá lên trên thị trường chứng khoán, ngay cả khi những người đầu cơ giá xuống công nhận rằng nền kinh tế đang đối mặt với nhiều lực cản mạnh hơn trông đợi, bao gồm nhu cầu toàn cầu yếu, được chống đỡ bởi các chính sách tiền tệ mở rộng tại nhiều nền kinh tế.

Khi các vấn đề của Trung Quốc trở nên rõ ràng trên quy mô lớn hơn, lòng tin của nhà đầu tư xuống thấp – và thị trường chứng khoán cũng vậy. Chính phủ Trung Quốc sau đó can thiệp với các biện pháp để bình ổn giá cổ phiếu. Nhưng những lần can thiệp như vậy chắc chắn liên quan tới một sự tái phân phối các thua lỗ trên thị trường, đặt ra câu hỏi có phải các nguồn lực nhà nước khan hiếm đáng ra nên được phân phối để kích thích nền kinh tế thực thay vì khu vực tài chính hay không. Và do sự can thiệp của nhà nước đã đặt một mức sàn ở dưới những thua lỗ của các bên tham gia thị trường, nó làm suy yếu tính hiệu quả của chính sách vĩ mô thông thường.
Các nhà đầu tư chắc chắn hiểu rằng nhà nước có thể và sẽ can thiệp để làm dịu bớt sự bất ổn tạm thời trên thị trường. Nhưng niềm tin thị trường phụ thuộc vào cái gì bền vững trong dài hạn. Nếu Trung Quốc muốn tránh cái bẫy giảm phát, hồi sinh đầu tư, thúc đẩy tính cạnh tranh và đẩy nhanh tăng trưởng dài hạn, nước này phải tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình để thúc đẩy tinh thần đổi mới và kinh doanh.

Xét cho cùng, tương lai dài hạn của Trung Quốc phụ thuộc vào năng lực thúc đẩy lòng tin thị trường của nước này. Không ai sẽ được truyền cảm hứng để gia tăng đầu tư vào Trung Quốc nếu họ không thể tin vào việc nền kinh tế cuối cùng sẽ tạo điều kiện cho họ thu lợi nhuận. Vì vậy, một điều rất quan trọng là các nhà lãnh đạo Trung Quốc không chỉ thúc đẩy tiêu dùng nội địa để bù đắp đình trệ ở những nơi khác, mà còn đảm bảo rằng nhà nước và các lực lượng thị trường hợp tác với nhau một cách đáng tin cậy.

Ở một mức độ nào đó, chính quyền dường như đã sẵn sàng làm những gì cần thiết. Phá giá đồng nhân dân tệ ở mức khoảng 2% so với đồng USD – bước đi lớn nhất trong một ngày kể từ khi đồng nhân dân tệ chính thức loại bỏ việc neo giá vào đồng USD – sẽ đem lại cho các lực lượng thị trường nhiều ảnh hưởng hơn đối với đồng tiền được kiểm soát chặt chẽ này, trong khi đem lại cho các doanh nghiệp Trung Quốc một lợi thế cạnh tranh tại các thị trường nước ngoài.

Nhưng nhiều việc nữa cần được thực hiện. Trong khi Trung Quốc còn xa mới bị coi là không thể trả nợ – đất nước này vẫn là một chủ nợ thực ở mức gần 1.800 tỷ USD – nhiều khả năng thanh khoản nội địa cần được giải phóng để hỗ trợ nền kinh tế, và đặc biệt là khu vực tư nhân, khi khu vực này thích nghi với những thay đổi cơ cấu trong nước và trên toàn cầu. Quả thực, chính sự thiếu hụt khả năng thanh khoản trên thị trường chứng khoán, cùng với niềm tin mong manh, đã châm ngòi cho sự không ổn định gần đây trên thị trường tài chính.

Trung Quốc hiện đang đối diện với ba mất cân bằng về cơ cấu. Thứ nhất, hệ thống ngân hàng, mà thống trị lĩnh vực cho vay, điển hình là tài trợ cho các khoản đầu tư dài hạn với tiền gửi ngân hàng ngắn hạn, tạo ra một sự không tương xứng về kỳ hạn. Thứ hai, bảng quyết toán của Trung Quốc đang chứa quá nhiều nợ có liên quan tới cổ phiếu. Và thứ ba, có một sự mất cân bằng giữa nhà nước và thị trường, với khu vực tư nhân vẫn thiếu sự tiếp cận với khả năng thanh khoản so với các doanh nghiệp nhà nước.

Như kinh nghiệm cay đắng gần đây đã cho thấy Chính phủ Trung Quốc không thể tiếp tục kích thích nền kinh tế bằng cách theo đuổi các khoản đầu tư được tài trợ bằng nợ. Đã đến lúc trao cho các bên tham gia thuộc khu vực tư nhân các công cụ họ cần để dẫn dắt nền kinh tế hướng tới sự thịnh vượng bền vững hơn. Việc này bao gồm nâng cấp triệt để các thị trường vốn và tích cực thúc đẩy sự đổi mới và đầu tư tư nhân, trong khi sử dụng các tài sản nhà nước để củng cố mạng lưới an sinh xã hội bằng cách, ví dụ như, lấp những lỗ hổng trong các hệ thống lương hưu và an sinh xã hội.

Những vấn đề này không mang tính kỹ thuật, mà mang tính chính trị, khi các nhóm lợi ích cố hữu muốn duy trì sự kiểm soát quan liêu hơn. Nhưng với nỗ lực chống tham nhũng của Chủ tịch Tập Cận Bình đang loại bỏ dần văn hóa lợi ích cá nhân trong các quan chức Trung Quốc, giờ đã đến lúc tiếp tục theo đuổi các cải cách cơ cấu, chứ không phải quay lưng lại với chúng.

Vấn đề về tính phức tạp của Trung Quốc

Có nhiều thành phần đang chuyển động trong quá trình chuyển tiếp đầy khó khăn của Trung Quốc sang cái mà các nhà lãnh đạo nước này gọi là một xã hội tương đối khá giả. Những thay đổi mang tính kiến tạo đang diễn ra đồng thời trên nhiều mặt trận – nền kinh tế, các thị trường tài chính, chiến lược địa chính trị và chính sách xã hội. Bài kiểm tra cuối cùng rất có thể nằm ở việc quản lý tác động lẫn nhau cực kỳ phức tạp giữa các tiến triển này. Liệu ban lãnh đạo của Trung Quốc đã thực sự sẵn sàng cho nhiệm vụ này, hay cố gắng làm cùng một lúc quá nhiều việc so với khả năng của mình?

Phần lớn các nhà bình luận phương Tây tiếp tục đơn giản hóa quá mức cuộc tranh luận này, đóng khung nó dưới dạng những kịch bản “hạ cánh cứng” của Trung Quốc được sử dụng rộng rãi mà đã không hoàn toàn đúng trong 20 năm. Sau sự lao dốc của thị trường chứng khoán vào mùa Hè năm 2015 và việc phá giá đồng nhân dân tệ gây ngạc nhiên, điều tương tự lại đang diễn ra. Tuy nhiên, tác giả nghi rằng những lo sợ về một sự suy thoái rõ ràng tại Trung Quốc đã bị thổi phồng quá mức.

Trong khi cuộc tranh luận về triển vọng ngắn hạn của Trung Quốc hầu như không nên bị tầm thường hóa, câu chuyện lớn hơn nhiều là sự tiến bộ vững chắc của nền kinh tế nước này trên con đường hướng tới tái cân bằng – mà cụ thể là một sự chuyển dịch về cơ cấu khỏi hoạt động chế tạo và xây dựng hướng tới dịch vụ. Vào năm 2014, khu vực dịch vụ chiếm tới 48,2% GDP của Trung Quốc, nhiều hơn phần đóng góp của cả chế tạo và xây dựng là 42,6%. Và khoảng cách đang tiếp tục được nới rộng – hoạt động dịch vụ tăng 8,4% hàng năm trong nửa đầu năm 2015, vượt xa mức tăng 6,1% trong chế tạo và xây dựng.

Về nhiều mặt, dịch vụ là cơ sở hạ tầng cho một xã hội tiêu dùng – trong trường hợp của Trung Quốc là cung cấp các dịch vụ cơ bản, thông tin liên lạc, cửa hàng bán lẻ, chăm sóc sức khỏe, và tài chính mà tầng lớp trung lưu mới nổi của nước đang ngày càng đòi hỏi. Chúng cũng đòi hỏi nhiều lao động: tại Trung Quốc, dịch vụ đòi hỏi số lượng việc làm nhiều hơn khoảng 30% cho mỗi đơn vị sản lượng so với hoạt động chế tạo và xây dựng vốn đòi hỏi nhiều vốn.

Phần lớn vì lý do đó mà xu hướng tuyển dụng của Trung Quốc đã chống đỡ tốt hơn so với người ta từng trông đợi trước sự giảm tốc về kinh tế. Tăng trưởng việc làm thành thị đạt mức trung bình hơn 13 triệu việc làm trong hai năm 2013-2014 – hoàn toàn vượt mức 10 triệu việc làm do chính phủ đề ra. Hơn nữa, dữ liệu từ đầu năm 2015 cho thấy hoạt động thuê nhân công ở thành thị gần như vẫn duy trì tốc độ ấn tượng của những năm vừa qua – khó có thể là sự căng thẳng trên thị trường việc làm thường đi kèm với “hạ cánh cứng” hay suy thoái.

Dịch vụ cũng là thành phần khiến chiến lược đô thị hóa của Trung Quốc trở nên rất hiệu quả. Hiện nay, khoảng 55% dân số Trung Quốc sống tại các thành phố, so với mức dưới 20% trong năm 1978. Và tỉ lệ này hẳn sẽ tăng lên 65-70% trong 15 năm tiếp theo. Các thành phố mới và đang mở rộng duy trì tăng trưởng thông qua tuyển dụng dựa vào các ngành dịch vụ, điều tới lượt nó sẽ thúc đẩy sức mua của người tiêu dùng bằng cách tăng gấp ba thu nhập theo đầu người so với thu nhập kiếm được tại vùng nông thôn.

Vì vậy, bất chấp mọi biểu hiện lo lắng quá mức về một sự sụp đổ của Trung Quốc, sự thay đổi nhanh chóng hướng tới một nền kinh tế dựa vào dịch vụ đang làm dịu bớt những áp lực bất lợi trong nền kinh tế cũ dựa vào chế tạo. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã nhấn mạnh kết luận tương tự trong tham vấn theo Điều IV gần đây của tổ chức này với Trung Quốc, lưu ý rằng thu nhập lao động hiện đang mở rộng như là một phần đóng góp cho GDP, và tiêu dùng đã đóng góp nhiều hơn một chút so với đầu tư vào tăng trưởng GDP năm 2014. Điều này có vẻ như là tiến bộ nhỏ, nhưng thực tế lại khá nhanh so với tốc độ bình thường rất chậm của thay đổi cơ cấu – một quá trình đã bắt đầu tại Trung Quốc vào năm 2011 với việc ban hành Kế hoạch 5 năm lần thứ 12.

Tuy nhiên, có một cái bẫy quan trọng. Trong khi tiến bộ về tái cân bằng kinh tế là đáng khích lệ, Trung Quốc đã đưa ra quá nhiều việc để làm: các kế hoạch đồng thời để hiện đại hóa hệ thống tài chính, cải cách tiền tệ, và giải quyết sự dư thừa quá mức về cổ phiếu, nợ và các thị trường bất động sản. Trong khi đó, chính quyền cũng đang theo đuổi một chiến dịch chống tham nhũng hung hăng, một chính sách đối ngoại mạnh mẽ hơn và một sự phục hưng mang tính dân tộc chủ nghĩa ẩn mình dưới hình thức “Giấc mộng Trung Hoa”.

Tác động lẫn nhau giữa nhiều mục tiêu này có thể chứng tỏ là đặc biệt gây nản lòng. Ví dụ, sự giao nhau giữa thoái nợ và bùng nổ bong bóng chứng khoán có thể tạo ra một vòng xoáy đi xuống trong nền kinh tế chế tạo cũ mà làm lung lay lòng tin của người tiêu dùng và làm mất đi hiệu ứng của sự năng động mới nổi trong nền kinh tế dịch vụ mới. Tương tự, các cuộc phiêu lưu quân sự tại biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) có thể gây tổn hại tới các kết nối của Trung Quốc với phần còn lại của thế giới trước khi nước này có thể dựa vào nhu cầu nội địa cho tăng trưởng kinh tế.

Điều mỉa mai là hành động luôn thay đổi của Trung Quốc có thể chứng tỏ là nhà cầm quyền thậm chí còn khó khăn hơn để thành công trong một hệ thống dựa trên thị trường và hướng tới người tiêu dùng. Bị mắc kẹt trong sự chuyển tiếp từ mô hình được nhà nước điều khiển và được kiểm soát chặt chẽ của Trung Quốc, chính phủ dường như đang lúng túng – chẳng hạn bằng cách nhấn mạnh một sự chuyển hướng mang tính quyết định sang thị trường, chỉ để can thiệp quyết liệt khi giá chứng khoán lao dốc. Tương tự, chính phủ đang theo đuổi nhiều hơn một cơ chế tỷ giá hối đoái dựa trên thị trường trong khi lại dẫn dắt để đồng nhân dân tệ giảm giá trị hơn.

Thêm vào đó là một cam kết thất thường cải cách các doanh nghiệp nhà nước và Trung Quốc tình cờ có thể thấy nước này bị vướng vào một thứ tương đương với cái mà chuyên gia Minxin Pei từ lâu đã gọi là một “sự chuyển đổi bị mắc kẹt”, trong đó chiến lược cải cách kinh tế bị làm cho lúng túng do thiếu ý chí chính trị tại một nhà nước độc đảng. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình, không hề thiếu ý chí chính trị trong nước Trung Quốc ngày nay. Thách thức là dành ưu tiên cho ý chí đó theo một cách thức mà giữ Trung Quốc tiếp tục đường lối cải cách và tái cân bằng. Bất cứ sự rút lui nào trên các mặt trận này sẽ dẫn Trung Quốc tới một kiểu bẫy mà Pei từ lâu đã lo ngại là không thể tránh khỏi.

Phát triển kinh tế từ trước tới nay luôn là một thách thức gây nản lòng. Khi những cảnh báo về “bẫy thu nhập trung bình” được nhấn mạnh, lịch sử lại đầy rẫy những thất bại hơn là thành công trong việc thúc đẩy vượt ra ngoài ngưỡng cửa thu nhập đầu người mà Trung Quốc đã đạt được. Điều Trung Quốc không cần nhất là cố gắng cân bằng quá mức những vấn đề không có giá trị thực tiễn. Các nhà lãnh đạo của nước này cần đơn giản hóa và làm rõ một chương trình nghị sự mà có nguy cơ trở nên phức tạp tới mức không thể quản lý.

Những  mối nợ của Trung Quốc

Không có phép ẩn dụ nào tốt hơn cho thách thức kinh tế mà Trung Quốc đang đối mặt ngoài tác phẩm kiến trúc theo phong cách tương lai được sử dụng làm trụ sở cho đài truyền hình nhà nước của Trung Quốc CCTV. Một vài tháng trước khi tòa nhà mang tính bước ngoặt này được hoàn thiện vào năm 2009, các quan chức tại đài đã tổ chức một buổi trình diễn pháo hoa trái phép, gây ra một vụ cháy bao trùm một tòa nhà nhỏ hơn trong tổ hợp, một tòa nhà hình cái nêm mà người dân Bắc Kinh đặt cho biệt danh là tổ mối.

Vụ cháy đã trì hoãn việc hoàn thành trụ sở CCTV cho tới năm 2012. Tổ mối vẫn chưa được hoàn thành và không có ai làm việc bên trong, sự toàn vẹn cấu trúc của nó đã bị ngọn lửa phá hủy, và nó không thể được phá dỡ do lo ngại làm suy yếu tòa nhà lớn hơn bên cạnh. Phần tốt trong cấu trúc không thể rũ bỏ gánh nặng của phần xấu.

Hai tòa nhà gợi nhớ tới nền kinh tế đang ngày càng đi theo hai hướng của Trung Quốc: một hướng mới dựa trên dịch vụ và tiêu dùng đang bị đè nặng bởi một hướng cũ, chậm hơn bao gồm các ngành công nghiệp như luyện thép và khai mỏ, vốn không hiệu quả và hứng chịu vấn đề công suất dư thừa. Trùm lên trên cả hai hướng là thị trường bất động sản của đất nước, vốn được đặc trưng bởi năng suất dư thừa khổng lồ tại các thành phố cỡ vừa và nhỏ và nhu cầu mạnh mẽ tại các thành phố lớn.

Vấn đề được làm cho tồi tệ hơn bởi sự khăng khăng theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng cao của ban lãnh đạo Trung Quốc – hiện tại là 7% – và kết quả là sự phụ thuộc vào tín dụng để tạo ra sản lượng cần thiết. Vì hệ thống tín dụng đã được thiết kế xung quanh các đảm bảo ngầm của nhà nước, phần nhiều việc tài trợ vốn được phân phối sai cho các khu vực có mức nợ cao và ít hiệu quả trong nền kinh tế. Kết quả là các nền tảng cho sự thần kỳ về tăng trưởng của Trung Quốc đang dần dần bị xói mòn bởi một khối u nợ mà cho thấy ít dấu hiệu xẹp xuống.

Sự mất kiểm soát của chính phủ đối với nền kinh tế đã trở nên ngày càng rõ ràng. Sự vươn lên nhanh chóng và sự sụp đổ sau đó trên thị trường chứng khoán của Trung Quốc đã khiến các nhà đầu tư rất lo lắng. Nhưng sự cảnh báo thực sự là nỗ lực muộn màng nhằm phân loại việc vay mượn và chi tiêu không hợp lý của chính quyền địa phương.

Nỗ lực đầu tiên của Văn phòng kiểm toán quốc gia nhằm ước tính quy mô nợ của chính quyền địa phương đã phát hiện khoản nợ tồn có trị giá 26% GDP vào cuối năm 2010. Một nỗ lực thứ hai vào giữa năm 2013 đã cho thấy một sự gia tăng hơn nữa lên 32% GDP. Và nghiên cứu mới nhất của Viện khoa học xã hội Trung Quốc cho thấy nợ đã tăng mạnh lên mức 47,5% GDP vào cuối năm 2014.

Vào tháng 11/2013, Chủ tịch Tập Cận Bình đã đưa ra một nghị trình cải cách mà tìm cách tăng cường vai trò của thị trường trong nền kinh tế Trung Quốc. Nó được hy vọng sẽ giải quyết vấn đề phân bổ sai vốn mà dường như đang dẫn tới một sự gia tăng về nợ không thể chống đỡ được.

Nợ của chính quyền địa phương đã trở thành một trường hợp kiểm thử chính. Vào đầu năm 2015, chính quyền trung ương đã công bố các kế hoạch chuyển đổi nợ ngân hàng ngắn hạn và có lãi suất cao của các chính quyền địa phương thành trái phiếu dài hạn. Bằng cách kéo dài kỳ hạn thanh toán nợ, chính quyền trung ương hy vọng giảm bớt những hạn chế về tài trợ vốn đối với các chính quyền địa phương và tạo điều kiện cho họ theo đuổi kích thích tài chính.

Khi các ngân hàng Trung Quốc chùn bước trước việc chấp nhận lợi tức thấp được đưa ra đối với trái phiếu mới, mục tiêu tăng cường vai trò của thị trường trong nền kinh tế biến mất. Chính phủ buộc các ngân hàng thực hiện hoán đổi nợ. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các ngân hàng đột nhiên trở nên không thích rủi ro. Các chính quyền địa phương phát hiện ra rằng ngay cả với một vị thế thanh khoản tốt hơn, các ngân hàng vẫn miễn cưỡng gia hạn các khoản cho vay mới.

Trong khi đó, đình trệ trên thị trường bất động sản đã lấy đi của các chính quyền địa phương nguồn thu nhập chính: bán đất. Từ đó nảy sinh một trong số những diễn tiến gây sốc hơn trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế của nước Trung Quốc hiện đại: lời kêu gọi kích thích của chính phủ đơn giản đã bị phớt lờ.

Trung Quốc dường như đang rơi vào một cái bẫy mà nước này cố gắng tìm cách tránh khỏi. Vấn đề nợ của Trung Quốc dường như có khả năng trở nên tồi tệ hơn khi chính phủ xao nhãng các cải cách của mình để theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn. Sự ngáng trở đối với nền kinh tế sẽ tăng lên khi các nguồn lực tiếp tục bị chuyển sang việc duy trì sự tồn tại của các công ty không có hiệu quả. Các ngân hàng sẽ trở nên không thích rủi ro hơn bao giờ hết khi họ tìm cách che giấu nợ xấu và tránh điều chỉnh xuống giá trị các tài sản. Chính phủ đã tìm cách tăng khả năng thanh khoản bằng việc từ bỏ kiểm soát sự di chuyển của vốn. Làm như vậy không chỉ làm suy yếu thêm nữa sự kiểm soát của chính phủ đối với nền kinh tế; nó còn tạo ra nguy cơ về một cuộc khủng hoảng tài chính mạnh mẽ mà có thể nhấn chìm các nước láng giềng của Trung Quốc và các thị trường mới nổi khác. Trong thời điểm hiện nay, với đồng USD tăng giá bổ sung thêm vào những lo lắng về kinh tế của Trung Quốc khi đồng tiền nước này tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác trong khu vực, nhà cầm quyền đã dựa vào bản năng cũ là phá giá đồng tiền.

Như vậy sẽ là không đủ. Thị trường bất động sản Trung Quốc đang xì hơi. Thị trường cổ phiếu của nước này đã bị mất uy tín. Và nền kinh tế của nước này dường như ngày càng ì ạch. Kết quả là khoản tiết kiệm trong nước khổng lồ của Trung Quốc đang ngày càng có xu hướng được chuyển ra nước ngoài. Liên quan tới quy mô nợ nước ngoài của Trung Quốc và khối lượng tiền có thể chuyển ra nước ngoài, ngay cả dự trữ ngoại tệ trị giá 3.700 tỷ USD của nước này bắt đầu trông có vẻ nhỏ bé.

Như những con mối, nợ có một khả năng độc đáo là phá hoại nhanh chóng các nền tảng của một nền kinh tế. Tới khi sự phá hoại được nhận ra, thường là đã quá muộn. Nếu Trung Quốc có ý định đảo ngược thiệt hại, nước này sẽ cần phải tập trung vào việc thoái nợ, sửa chữa cơ cấu phân bổ vốn của nước này, và trì hoãn việc bãi bỏ kiểm soát vốn. Nền kinh tế nước này nhiều khả năng sẽ phải hứng chịu một cuộc khủng hoảng tăng trưởng trong vòng 12-24 tháng tiếp theo. Tính khốc liệt của nó sẽ được quyết định bởi việc liệu chính phủ hiện nay có thực hiện những điều chỉnh khó khăn không – hay như Nhật Bản trong những năm 1990 – cố gắng cầu mong những con mối biến mất.

Giá trị của việc Trung Quốc phá giá đồng tiền

Vào đầu tháng 8, các thị trường tài chính quốc tế gần như nổ tung. Từ Đông Á tới Tây Âu, các đồng tiền tê liệt và giá chứng khoán lao dốc – tất cả là vì quyết định của Trung Quốc cho phép phá giá khiêm tốn đồng nhân dân tệ của mình. Những người bi quan cảnh báo rằng nền kinh tế Trung Quốc đang đứng trên bờ vực sụp đổ. Một kỷ nguyên mới của chiến tranh tiền tệ sắp được mở ra, những người chuyên dự đoán về thảm họa phụ họa theo. Gọi đây là một phản ứng quá mức sẽ là nói nhẹ đi một cách trắng trợn.

Phải thừa nhận rằng nền kinh tế Trung Quốc đã giảm tốc, đặc biệt bởi một sự suy giảm mạnh trong xuất khẩu. Và việc phá giá đồng nhân dân tệ có thể được coi như là một động thái quyết liệt nhằm đảo ngược sự suy giảm xuất khẩu và phục hồi tăng trưởng nội địa – một bước đi có thể khiến các đối thủ cạnh tranh tại châu Á và ở những nơi khác cũng hạ thấp tỷ giá hối đoái của họ, châm ngòi cho một cuộc chiến tiền tệ tổng lực. Vì vậy về mặt này, nỗi lo của nhà đầu tư không phải không có căn cứ.

Nhưng nguy cơ này nghiêm trọng đến đâu? Trên thực tế, Trung Quốc đã phá giá đồng tiền ở mức khiêm tốn – tới giữa tháng 8 mức phá giá tổng cộng ít hơn 5%. So sánh với mức giảm 20% của đồng euro cho tới nay trong năm nay, 35% của đồng yen kể từ khi Nhật Bản theo đuổi chương trình cải cách “Abenomics” vào cuối năm 2012, rõ ràng những dòng tít bị thổi phồng quá mức về “sự lao dốc” của đồng nhân dân tệ là rất gây hiểu nhầm. Nếu Trung Quốc thực sự muốn giành lấy phần chia lớn hơn trong xuất khẩu thế giới, khó có thể hình dung được rằng các nhà hoạch định chính sách của nước này lại chấp nhận một sự điều chỉnh khiêm tốn như vậy.

Động cơ thúc đẩy thực sự của Trung Quốc dường như mang tính nhìn xa trông rộng hơn. Việc phá giá đã thúc đẩy mục tiêu chiến lược của Trung Quốc là biến đồng nhân dân tệ thành một đồng tiền dự trữ quốc tế – và trong dài hạn, thành một kẻ thách thức đáng tin cậy đối với đồng USD trên toàn cầu.

Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc đã vận động trong nhiều năm để đồng nhân dân tệ được đưa vào giỏ tiền tệ mà quyết định giá trị của Quyền rút vốn đặc biệt (SDR), tài sản dự trữ nhân tạo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Trong thời điểm hiện nay, giỏ tiền tệ đó bao gồm đồng USD, đồng bảng Anh, đồng euro và đồng yên. Đồng nhân dân tệ được bổ sung vào nhóm các đồng tiền hàng đầu của thế giới này, nó sẽ giành được uy tín đáng kể, và các ngân hàng trung ương chắc chắn sẽ gia tăng việc sử dụng đồng tiền này như là một tài sản dự trữ.

Theo IMF, để một đồng tiền được đưa vào giỏ SDR, nó cần đáp ứng đủ hai tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn thứ nhất – nước phát hành đồng tiền này phải nằm trong số các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới – không phải là một vấn đề: Trung Quốc đã là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Nhưng tiêu chuẩn thứ hai – rằng đồng tiền đó phải có thể được “sử dụng tự do” (được sử dụng và trao đổi rộng rãi) – đã chứng tỏ là một chướng ngại gây khó khăn chính. Khi xét tới những giới hạn chặt chẽ do chính phủ áp đặt đối với việc nhà đầu tư nước ngoài mua đồng nhân dân tệ, cũng như việc nhà đầu tư Trung Quốc sử dụng đồng nhân dân tệ để đầu tư ra nước ngoài, không nhiều nhà quan sát sẽ miêu tả đồng tiền này như là có thể được sử dụng tự do. Quả thực, một báo cáo của IMF vào tháng 8 đã đưa ra kết luận rằng đồng nhân dân tệ vẫn chưa sẵn sàng cho “thời điểm vàng” trong nền kinh tế toàn cầu vì chính lý do đó.

Nhưng Trung Quốc đã và đang thực hiện những bước đi cụ thể nhằm mở rộng việc sử dụng đồng nhân dân tệ, bao gồm ký kết các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với hơn 24 quốc gia, chủ động khuyến khích các thị trường nước ngoài sử dụng các khoản tiền gửi và trái phiếu bằng đồng nhân dân tệ, và thận trọng mở cửa các thị trường vốn trong nước.

Trung Quốc hiện đang xem xét một yếu tố quan trọng khác đang cản trở việc sử dụng đồng nhân dân tệ trên tầm quốc tế: sự kiểm soát của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái. Về mặt lịch sử, tỷ giá hối đoái của nhân dân tệ đã được Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) điều chỉnh hàng ngày, mà không quan tâm tới tâm lý thị trường phía dưới, và cho phép trao đổi bên trong những giới hạn rất hạn hẹp. Nhưng Trung Quốc hiện đã công bố rằng các tín hiệu thị trường từ nay trở đi sẽ dẫn đường cho việc điều chỉnh tỷ giá hàng ngày. Giả dụ PBOC theo đuổi việc này, Trung Quốc có thể tuyên bố một cách đáng tin hơn rằng đồng tiền của nước này có thể được sử dụng tự do – hay ít nhất nước này đang đi theo đường lối đó.

Đương nhiên không phải ai cũng cảm thấy thuyết phục. Chúng ta phải chờ xem PBOC sẽ ứng xử như thế nào trên thực tế. Nhưng IMF chắc chắn đã lưu ý, gợi ý rằng “một tỷ giá hối đoái do thị trường quyết định nhiều hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động SDR, trong trường hợp đồng nhân dân tệ được đưa vào giỏ tiền tệ trong tương lai”. Đây quả là một sự thay đổi về giọng điệu so với báo cáo trước đó.

Trong khi phần lớn thế giới bị phân tâm bởi mối đe dọa được giả định về chiến tranh tiền tệ, Trung Quốc có thể đã tìm ra một con đường để lặng lẽ gia nhập giỏ SDR. Ít nhất trong thời điểm hiện nay, có vẻ như chiến lược dài hạn của nước này cho đồng nhân dân tệ đang đi đúng hướng.

Liệu đồng nhân dân tệ có thể thống trị thế giới?

Người Trung Quốc có một câu nói: “Hãy nhìn lại, chẳng mất gì đâu”. Đây là một lời khuyên phù hợp trong bối cảnh sự bất ổn hiện nay trên thị trường cổ phiếu Trung Quốc, những tác động của nó mở rộng vượt ra ngoài tâm trạng lo lắng tức thì mà sự hỗn loạn mới đây đã gây ra. Trên thực tế, sự rối loạn này nên được nhìn nhận trong bối cảnh một trong số các mục tiêu chiến lược cốt lõi của Trung Quốc: thiết lập đồng nhân dân tệ như là một đồng tiền dự trữ quốc tế.

Tiềm năng của đồng nhân dân tệ như là một đồng tiền dự trữ đã giành được nhiều sự chú ý hơn trong năm 2015, khi IMF chuẩn bị xem xét giỏ tiền tệ mà xác định giá trị của tài sản dự trữ của chính cơ quan này, Quyền rút vốn đặc biệt. SDR được tạo ra năm 1969 nhằm bổ sung cho dự trữ chính thức của các nước thành viên. Trung Quốc đã vận động trong nhiều năm để đồng nhân dân tệ được đưa vào giỏ tiền tệ, bên cạnh đồng USD, đồng bảng Anh, đồng euro và đồng yên.

Sự thúc đẩy của Trung Quốc để có được vị thế đồng tiền dự trữ cho đồng nhân dân tệ là có thể hiểu được, khi xét tới những lợi ích sâu rộng của một sự thay đổi như vậy. Nó sẽ khiến đồng tiền này ổn định hơn và giảm bớt nhu cầu nắm giữ dự trữ khổng lồ. Với các nhà hoạch định chính sách không còn bị buộc phải kiềm chế nhu cầu nội địa để duy trì dự trữ ở mức cao, tiêu dùng có thể thay thế đầu tư tài sản cố định, đặt nền kinh tế Trung Quốc lên một con đường phát triển bền vững hơn. Dự trữ dư thừa có thể được phân bổ cho các quỹ đầu tư quốc gia và dự án tài chính – bao gồm thông qua Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á mới – mà mở rộng ảnh hưởng toàn cầu của nước này.

IMF muốn tập trung vào một “bộ tiêu chuẩn được xác định rõ”, bao gồm những nỗ lực nhằm mở cửa hệ thống tài chính và phát triển các thị trường vốn.

Nhưng việc được đưa vào giỏ SDR là không cần thiết và cũng không đủ để đạt được vị thế đồng tiền dự trữ thật sự. SDR chỉ chiếm 2% tổng dự trữ của ngân hàng trung ương, và nó hoàn toàn không được khu vực tư nhân sử dụng. Trên thực tế, giỏ 4 loại tiền tệ đã không thay đổi trong 15 năm, phần lớn vì nó thiếu tầm quan trọng.

Đương nhiên, việc đưa đồng nhân dân tệ vào giỏ SDR sẽ là một cột mốc biểu tượng quan trọng trên con đường của đồng tiền này hướng tới sự quốc tế hóa hoàn toàn. Nhưng đó là con đường dài và khó khăn, với chính phủ bị buộc phải vượt qua những chướng ngại kinh tế chính trên con đường, bao gồm sự bất ổn cực độ của giá tài sản.

Một đồng tiền dự trữ ít nhất phải có thể chuyển đổi được một cách tự do cho các giao dịch tài khoản vãng lai, ví dụ như trao đổi thương mại và thanh toán lãi suất. Tuy nhiên, để đạt được vị thế đồng tiền dự trữ thực sự, nó cũng phải có thể chuyển đổi một cách tự do vì các mục đích tài khoản vốn, ví dụ như đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều quan trọng nhất là các ngân hàng trung ương cần tới khả năng thanh khoản được thể hiện bằng một đồng tiền dự trữ để đáp ứng các yêu cầu về cán cân thanh toán, trả lãi nợ và đôi khi can thiệp vào các thị trường ngoại hối.

Để đạt được điều này, quốc gia cung cấp đồng tiền dự trữ cần một thị trường vốn trong nước lớn – đặc biệt cho chứng khoán nợ ngắn hạn có chất lượng cao – nơi dự trữ ngân hàng trung ương có thể được giữ trong đó. Tại Mỹ, tín phiếu kho bạc phục vụ cho mục đích này, trong khi tại Anh lại có một quỹ chứng khoán bảo đảm lớn có tính thanh khoản trong ngắn hạn. Nhưng thị trường nợ chính phủ của Trung Quốc, nơi phù hợp nhất để chứa đựng các tài sản dự trữ, vẫn quá nhỏ và thiếu khả năng thanh khoản cho các mục đích của các nhà quản lý ngân hàng trung ương.

Vượt ra ngoài việc duy trì tính có thể chuyển đổi được, một quốc gia phải chấp nhận “yêu cầu quá mức” đối với đồng tiền của mình và thoải mái cung cấp nó. Trên thực tế, điều này có nghĩa là Trung Quốc sẽ cần bị thâm hụt tài khoản vãng lai kinh niên, điều mà nước này có thể không sẵn sàng thực hiện. Đồng thời, phần còn lại của thế giới có thể không sẵn sàng tập hợp các đòi hỏi của mình trước Trung Quốc – ít nhất là không trên quy mô được yêu cầu cho một đồng tiền dự trữ có thể đứng vững được.

Ngay cả khi Chính quyền Trung Quốc xoay xở đạt được tính có thể chuyển đổi và khả năng trao đổi đầy đủ cho đồng nhân dân tệ, không có sự đảm bảo rằng nó sẽ thực sự trở thành một đồng tiền dự trữ toàn cầu vì lý do đơn giản rằng các đồng tiền dự trữ không dễ dàng được thiết lập. Quả thực, trong hơn 3 thế kỷ toàn cầu hóa, chỉ có 3 “đồng tiền” thống trị: vàng, đồng bảng Anh và đồng USD. Tuy đồng mark Đức, đồng franc Thụy Sĩ và đồng yên Nhật đều đem lại những giải pháp thay thế ổn định cho đồng USD kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, thường cung cấp các giá trị lưu trữ tốt hơn mà ít dẫn tới lạm phát, không đồng tiền nào trong số đó có thể làm cho phần đóng góp của đồng USD trong dự trữ ngoại hối toàn cầu giảm đáng kể một cách bền vững.

Đây cũng không phải là một sự tình cờ khi các trung tâm tài chính toàn cầu và các đồng tiền dự trữ chủ yếu nổi lên từ các quốc gia nơi pháp trị được thiết lập tốt, và nơi người nước ngoài không phải đối mặt với sự phân biệt đối xử tiềm tàng về pháp lý. Liệu Trung Quốc có thể đạt được địa vị pháp lý tương tự hay không vẫn còn là một dấu hỏi; ít nhất đó sẽ là một quá trình dài và chậm chạp.

Trung Quốc tiếp tục thực hiện một số bước đi cần thiết để đạt được vị thế đồng tiền dự trữ. Nhưng, như các thị trường chứng khoán của Trung Quốc đã cho thấy nhiều khả năng đây sẽ là một con đường gập ghềnh.

Những can thiệp chính trị của Trung Quốc

Trong tháng 8/2015, các thị trường chứng khoán trên khắp thế giới đã bị ảnh hưởng bởi một sự bộc phát về tính bất ổn, với những dao động lớn về giá đe dọa những nhà giao dịch tại New York, Tokyo, London và còn xa hơn nữa. Và toàn bộ cơn co giật tài chính toàn cầu hầu như được đổ cho một thủ phạm duy nhất: Trung Quốc.

Trong một nền kinh tế tự do, các cơ chế thị trường có thể tạo ra sự ổn định hay bất ổn. Sự tăng giá của một mặt hàng hữu hình thường sẽ khiến cho nhu cầu sụt giảm, dẫn thị trường hướng tới một trạng thái cân bằng mới. Ngược lại, sự tăng giá một tài sản như cổ phần sẽ làm dấy lên những trông đợi về một sự tăng giá hơn nữa, khiến cầu tăng lên, có khả năng lên mức quá cao.

Trong một nền kinh tế kế hoạch như của Trung Quốc, nơi các nhà hoạch định chính sách sử dụng nhiều công cụ khác nhau để gây ảnh hưởng tới giá tài sản, sự bất ổn như vậy trên lý thuyết có thể tránh được; quả thực, quan điểm theo chủ nghĩa Marx cho rằng sự can thiệp của chính phủ để ngăn chặn khủng hoảng chính xác là lý do tại sao các nền kinh tế được kiểm soát ưu việt hơn so với các nền kinh tế thị trường tự do. Nhưng trên thực tế, mọi việc lại không diễn ra như vậy.

Cái gọi là các hoạt động giữ giá của cơ quan chịu trách nhiệm về tiền tệ của Trung Quốc (một cách tiếp cận đã được thử nghiệm tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990) có lẽ là lý do giải thích tại sao thị trường chứng khoán trong nước tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2014, vượt xa các mức độ được đảm bảo bởi những nguyên tắc kinh tế cơ bản của nước này. Sự lao dốc gần đây của thị trường chứng khoán cho thấy các nhà đầu tư đã đưa ra kết luận rằng giá chứng khoán đã trở nên không thể chống đỡ được.

Nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn cam kết can thiệp, phản ứng lại sự chỉnh sửa với các biện pháp mạnh tay và được chính trị thúc đẩy, kể cả đình chỉ hoàn toàn buôn bán cổ phiếu của nhiều công ty. Động thái này dường như đã ngăn chặn sự giảm giá hơn nữa của thị trường chứng khoán Thượng Hải.

Tác động dài hạn lên toàn bộ hệ thống của cách tiếp cận mang tính can thiệp của Trung Quốc thậm chí có thể nghiêm trọng hơn sự suy giảm hiện nay trên thị trường chứng khoán. Ít người muốn đầu tư vào một thị trường nơi chính phủ có thể thay đổi luật chơi vào bất cứ thời điểm nào, đặc biệt nếu họ đã có kinh nghiệm trực tiếp về việc bị ngăn cản giao dịch vào một thời điểm quan trọng. Để làm cho tình hình tồi tệ hơn, các nhà đầu tư Trung Quốc không có sự tiếp cận thông tin giống như của các nhà đầu tư trên các thị trường khác. Liệu một thị trường tài chính được tổ chức tốt như thị trường đang nổi lên tại Thượng Hải có thể tương thích với một chế độ chuyên chế không?

Một sự can thiệp khác gần đây của Chính quyền Trung Quốc – tăng giá dần dần, theo sau bởi sự phá giá đột ngột đồng nhân dân tệ – làm dấy lên những câu hỏi tương tự. Chắc chắn phần đầu của động thái này có lẽ chủ yếu được thúc đẩy bởi mong muốn củng cố vai trò của thị trường trong việc xác định tỷ giá hối đoái, mà hứa hẹn sẽ tăng cường sự ổn định trong dài hạn và cải thiện cơ hội trở thành một đồng tiền dự trữ toàn cầu của đồng nhân dân tệ. Nhưng như sự phá giá gần đây cho thấy sự chuyển hướng, đến sau nhiều năm nỗ lực củng cố đồng nhân dân tệ, có thể khiến tính bất ổn tăng mạnh trong các thị trường tiền tệ thế giới.

Đương nhiên, sự phá giá gần đây của đồng nhân dân tệ thấp hơn nhiều so với những sự phá giá đồng tiền trên thực tế do Mỹ và Anh sắp đặt sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó cũng không đáng kể như sự phá giá mà Ngân hàng trung ương Nhật Bản đã theo đuổi kể từ năm 2012. Nhưng việc đồng nhân dân tệ luôn được quản lý chặt chẽ, cùng với lịch sử tăng giá đều đặn của đồng tiền này, có nghĩa là sự phá giá đột ngột đã có một tác động đáng kể hơn lên thị trường so với những động thái của Mỹ, Anh và Nhật Bản, tất cả đều được kết nối tốt hơn trước đó.

Tuy vậy, những cảnh báo rằng việc phá giá đồng nhân dân tệ sẽ châm ngòi cho một “cuộc chiến tranh tiền tệ” là không có cơ sở. Dưới hệ thống tỷ giá linh hoạt mà hiện chiếm ưu thế trên thế giới, nếu mỗi nước tập trung chính sách tiền tệ của mình vào việc đạt được tình trạng việc làm và lạm phát lý tưởng trong nước, kết quả sẽ là tình hình kinh tế vĩ mô khá ổn định – hoặc thậm chí cái gọi là tình hình kinh tế vĩ mô tối ưu Pareto. Chắc chắn là Mỹ có thể phản ứng trước sự phá giá của Trung Quốc bằng cách trì hoãn tăng lãi suất hay giảm bớt tốc độ nước này rút khỏi các biện pháp nới lỏng định lượng, và Nhật Bản có thể tăng cường các biện pháp nới lỏng định lượng của chính mình để đối phó với các hiệu ứng lan tỏa tiêu cực. Nhưng sự phá giá tích lũy mang tính cạnh tranh sẽ không nảy sinh.

Tuy vậy, những sự kiện gần đây buộc các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải xem xét lại mức độ họ kiểm soát nền kinh tế đất nước. Nếu họ duy trì quá trình ra quyết định bí mật và tiếp tục thao túng hệ thống giá cho các mục tiêu chính trị, cơ hội của họ để xây dựng một nền kinh tế ổn định, có khả năng phục hồi nhanh và hướng tới thị trường, được chống đỡ bởi một đồng tiền dự trữ quốc tế chính, sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Câu hỏi mới về “hai nước Trung Quốc”

Đối với bất cứ ai trên 60 tuổi mà theo dõi các vấn đề quốc tế, thuật ngữ “hai nước Trung Quốc” gợi nhớ tới sự cạnh tranh để giành được sự công nhận về ngoại giao sau năm 1949 giữa Trung Quốc Đại lục (“Đỏ”) và Đài Loan, hay chính thức hơn, giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Trung Hoa. Vào đầu những năm 1970, hầu như mọi quốc gia bắt đầu chấp nhận yêu cầu của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rằng chỉ mình nước này được công nhận là chính phủ có chủ quyền hợp pháp của Trung Quốc. Đại lục đơn giản là quá lớn và quá quan trọng về mặt kinh tế và chiến lược tới mức không thể xa lánh.

Hiện nay, một câu hỏi mới, nhưng hoàn toàn khác về “hai nước Trung Quốc” đang nổi lên. Nó tập trung vào việc liệu Trung Quốc tốt nhất nên được hiểu như là một đất nước hùng mạnh, với một tương lai đầy hứa hẹn bất chấp một số khó khăn ngắn hạn, hay như là một đất nước phải đối mặt với các vấn đề cơ cấu nghiêm trọng và những triển vọng dài hạn không chắc chắn. Nói ngắn gọn, người ta hiện có thể thoáng thấy hai nước Trung Quốc rất khác nhau. Nhưng nước nào sẽ giành ưu thế?

Cho tới gần đây, có rất ít lý do để đưa ra một câu hỏi như vậy. Nền kinh tế Trung Quốc đang tăng tưởng với tốc trung bình hàng năm đáng kinh ngạc ở mức 10% hoặc hơn trong hơn 3 thập kỷ. Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Hàng trăm triệu người dân Trung Quốc đã gia nhập tầng lớp trung lưu. Mô hình của Trung Quốc về tính hiệu quả chuyên chế dường như có sức thu hút đối với nhiều quốc gia đang phát triển khác, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, vốn bắt đầu ở Mỹ và vì vậy dường như làm mất uy tín của chủ nghĩa tư bản tự do kiểu Mỹ.

Nhưng sự nghi ngờ về tương lai của Trung Quốc đã trở nên không thể tránh được. Về mặt chính thức, tăng trưởng kinh tế đã chậm lại ở mức gần 7%, nhưng nhiều người tin rằng con số thực ở dưới mức 5%. Sự giảm tốc không phải là một điều đáng ngạc nhiên; mọi quốc gia đang phát triển đều trải qua điều tương tự khi họ tăng trưởng và trưởng thành. Tuy nhiên, tốc độ và quy mô của sự thay đổi đã khiến nhà cầm quyền không kịp trở tay, và khơi dậy những nỗi lo ngại của các quan chức rằng tăng trưởng sẽ không đạt được tỷ lệ cần thiết để đất nước hiện đại hóa như kế hoạch.

Lo sợ của chính phủ trước việc kinh tế giảm tốc mạnh hơn trông đợi đã được phản ánh trong lần can thiệp mạnh tay vào tháng 7 để đóng băng các thị trường chứng khoán giữa đợt điều chỉnh giá mạnh mẽ. Động thái đó được tiếp nối bởi việc đột ngột phá giá đồng nhân dân tệ vào tháng 8/2015, cho thấy sự chuyển hướng khỏi tăng trưởng nhờ vào xuất khẩu đang không hoạt động hiệu quả như mong muốn.

Trong khi đó, chiến dịch chống tham nhũng của Chủ tịch Tập Cận Bình ngày càng giống với một chiến lược để củng cố quyền lực, hơn là một nỗ lực nhằm cải cách nhà nước Trung Quốc vì lợi ích của nền kinh tế và xã hội nước này. Nạn tham nhũng lan tràn, và chiến dịch của Tập Cận Bình vẫn được ủng hộ rộng rãi. Nhưng làn sóng truy tố mà Tập Cận Bình gây ra đang ngăn cản các quan chức Trung Quốc đưa ra quyết định, do lo sợ rằng họ có thể phải đối mặt với các cáo buộc hình sự trong tương lai.

Như là kết quả của những tiến triển này, gần đây người ta ít nghe thấy về mô hình Trung Quốc mà nghe nhiều hơn về thực tế Trung Quốc. Bên cạnh tăng trưởng chậm lại, thực tế này bao gồm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, một kết quả của nhiều thập kỷ công nghiệp hóa nhanh chóng và tiêu thụ nhiều than. Theo một ước tính, ô nhiễm không khí đang giết chết 1,6 triệu người Trung Quốc mỗi năm.

Dân số già hóa của Trung Quốc, một hậu quả không dự tính trước của chính sách một con khắc nghiệt của nước này, đem lại một mối đe dọa khác đối với sự thịnh vượng trong dài hạn. Với tỷ lệ dân số phụ thuộc – tỷ lệ trẻ em và người về hưu so với số lượng nam nữ trong độ tuổi lao động – có khả năng tăng lên nhanh chóng trong những năm tới, tăng trưởng kinh tế vẫn sẽ ở mức khiêm tốn, trong khi chi phí chăm sóc sức khỏe và lương hưu sẽ ngày càng kéo căng ngân sách chính phủ.

Điều ngày càng rõ ràng là các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn tăng trưởng kinh tế do chủ nghĩa tư bản tạo ra, nhưng không muốn những sự suy sụp đi kèm với nó. Họ muốn sự đổi mới mà một xã hội mở tạo ra, nhưng không muốn sự tự do trí tuệ mà xác định xã hội này. Một sự bùng nổ sẽ xảy ra. Một số nhà quan sát, lo ngại một Trung Quốc đang trỗi dậy, sẽ thở phào nhẽ nhõm trước những khó khăn hiện tại của nước này. Nhưng điều này có thể chứng tỏ là một phản ứng thiển cận.

Một Trung Quốc tăng trưởng chậm chạp sẽ làm suy yếu sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Nước này sẽ là một đối tác ít sẵn sàng hơn trong việc giải quyết những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu. Điều nguy hiểm nhất là một Trung Quốc đang vật lộn có thể bị cám dỗ chuyển sang chủ nghĩa phiêu lưu về mặt đối ngoại để xoa dịu một công chúng thất vọng với tăng trưởng kinh tế chậm lại và thiếu vắng tự do chính trị. Quả thực, có một số dấu hiệu cho thấy nhà cầm quyền đang làm đúng như vậy tại Biển Đông. Chủ nghĩa dân tộc có thể trở thành nguồn chính cho tính hợp pháp đối với một đảng cầm quyền mà không còn có thể chỉ rõ tiêu chuẩn sống tăng lên nhanh chóng nữa.

Mỹ và các nước khác sẽ cần phải phản ứng lại để đảm bảo rằng Trung Quốc không hành động theo một sự cám dỗ như vậy. Nhưng cũng sẽ là khôn ngoan khi Mỹ và các nước khác ra tín hiệu với Trung Quốc rằng nước này được chào đón có được vị trí trong số các quốc gia hàng đầu thế giới nếu hành động có trách nhiệm và tuân thủ các quy tắc đã được đặt ra cho tất cả.

Nhưng những lựa chọn chính sách lớn hơn sẽ phải do Trung Quốc đưa ra. Chính phủ sẽ cần tìm ra sự cân bằng phù hợp giữa các lợi ích của chính phủ và quyền của cá nhân, giữa tăng trưởng kinh tế và và quản lý môi trường, và giữa vai trò của các thị trường và vai trò của nhà nước.

Những lựa chọn mà Trung Quốc đang phải đối mặt không chỉ khó khăn mà còn không thể tránh được. Bất ổn xã hội lớn không thể bị loại trừ. Có một điều chắc chắn là 3 thập kỷ tiếp theo sẽ không phản ánh 3 thập kỷ vừa qua.

Trung Quốc nên làm gì?

Những nỗ lực mạnh tay của Chính phủ Trung Quốc nhằm kiềm chế sự bất ổn mới đây trên thị trường chứng khoán – động thái mới nhất cấm bán khống và hoạt động bán bởi các cổ đông chính – đã gây tổn hại nghiêm trọng tới sự tín nhiệm dành cho chính phủ. Nhưng thất bại chính sách của Trung Quốc hẳn không phải là một điều đáng ngạc nhiên. Các nhà hoạch định chính sách tại đây còn xa mới là những người đầu tiên quản lý kém các thị trường tài chính, tiền tệ và thương mại. Ví dụ, nhiều chính phủ châu Âu đã hứng chịu những thiệt hại gây bẽ mặt khi bảo vệ những đồng tiền đã bị điều chỉnh sai lệch về tỷ giá vào đầu những năm 1990.

Tuy vậy, nền kinh tế Trung Quốc vẫn là một nguồn không chắc chắn đáng kể. Quả thực, cho dù thành tích của thị trường chứng khoán và của nền kinh tế thực của Trung Quốc chưa có tương quan chặt chẽ với nhau, một sự giảm tốc lớn đang diễn ra. Đây là một lo ngại nghiêm trọng, gây bận rộn cho các bộ tài chính, ngân hàng trung ương, bàn giao dịch, nhà nhập khẩu và xuất khẩu trên toàn thế giới.

Chính phủ Trung Quốc tin rằng họ có thể sắp đặt một sự hạ cánh mềm trong quá trình chuyển đổi từ tăng trưởng kinh tế nóng hai con số, được thúc đẩy bởi xuất khẩu và đầu tư, sang tăng trưởng cân bằng và đều đặn được củng cố bởi tiêu dùng nội địa, đặc biệt là dịch vụ. Và trên thực tế, họ đã ban hành một số chính sách và cải cách hợp lý.

Nhưng tăng trưởng nhanh chóng đã che khuất nhiều vấn đề. Ví dụ, các quan chức, tìm kiếm sự thăng tiến bằng cách đạt được các mục tiêu kinh tế ngắn hạn, đã phân bổ sai các nguồn lực; các ngành công nghiệp cơ bản như thép và xi măng đã tích tụ năng lực thừa rất lớn; và các khoản nợ xấu tích lũy trên bảng quyết toán của các ngân hàng và chính quyền địa phương.

Không ở đâu mà các vấn đề với cách tiếp cận này lại rõ ràng hơn so với trong nỗ lực lên kế hoạch đô thị hóa, mà bao gồm việc xây dựng các thành phố lớn mới – được hoàn thiện với cơ sở hạ tầng hiện đại và rất nhiều nhà ở – mà vẫn chưa có người tới cư ngụ. Theo một cách hiểu, “những thành phố ma” này giống với những ngôi làng Potemkin của đế chế Nga, được xây dựng để tạo ra một ảo tưởng ấn tượng với nữ hoàng Nga; nhưng các thành phố ma của Trung Quốc là có thực và có lẽ chúng mang theo nhiều mục tiêu khác hơn là tâng bốc các nhà lãnh đạo của nước này.

Giờ đây khi tăng trưởng kinh tế đang ì ạch – các số liệu thống kê chính thức cho biết tăng trưởng hàng năm ở mức 7%, nhưng hầu hết các nhà quan sát tin rằng con số thực ở gần mức 5% (hoặc thậm chí thấp hơn) – các vấn đề quản trị của Trung Quốc đang trở nên không thể phớt lờ. Cho dù tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc vẫn vượt xa tỷ lệ tăng trưởng của tất cả các nước khác hiện nay ngoại trừ một vài nền kinh tế, quy mô của sự giảm tốc đã gây nhiều đau đớn, với động lực ngắn hạn tương đương với một sự chuyển đổi tại Mỹ hoặc Đức từ tăng trưởng GDP 2% sang suy thoái 3%.

Một Trung Quốc bị bao vây bởi các vấn đề kinh tế nghiêm trọng nhiều khả năng sẽ trải qua bất ổn chính trị và xã hội đáng kể. Khi sự giảm tốc đe dọa cản trở tạo việc làm, làm suy yếu các viễn cảnh của hàng triệu người dân chuyển tới các thành phố của Trung Quốc mỗi năm để tìm kiếm một cuộc sống thịnh vượng hơn, ĐCSTQ sẽ vật lộn để duy trì tính hợp pháp cho sự độc quyền chính trị của mình. (Nói rộng hơn, sức nặng của các vấn đề của Trung Quốc, cùng với sự sụp đổ của Nga và lạm phát ở mức 60% của Venezuela, đã làm tổn hại niềm tin của một số người rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ chiến thắng các nền kinh tế thị trường).

Khi xét tới tầm quan trọng mang tính hệ thống của Trung Quốc đối với nền kinh tế toàn cầu, bất ổn tại đây có thể đem tới những nguy cơ lớn vượt ra ngoài biên giới của nước này. Trung Quốc là nước nắm giữ nhiều nhất trái phiếu của Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ, là một đối tác thương mại quan trọng đối với Mỹ, châu Âu, Mỹ Latinh và Australia, và là một bên tạo điều kiện chính cho thương mại trong châu Á, một phần nhờ vào quy mô thương mại gia công của nước này.

Thế giới đang gặp nhiều nguy cơ tại Trung Quốc, và Chính quyền Trung Quốc cũng có nhiều vấn đề phải giải quyết. Chính phủ phải đối phó với những tác động ngắn hạn của sự giảm tốc trong khi tiếp tục thực hiện các cải cách nhằm mục tiêu làm ổn thỏa quá trình chuyển dịch của nền kinh tế sang một mô hình tăng trưởng mới và mở rộng vai trò của thị trường. Các công ty nước ngoài đang tìm kiếm sự tiếp cận tới tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh chóng của Trung Quốc, được Viện nghiên cứu toàn cầu McKinsey ước tính đã vượt mức 200 triệu người. Nhưng việc này ngụ ý một môi trường kinh doanh ổn định, bao gồm nhiều sự minh bạch hơn trong việc chấp thuận của chính phủ và kiểm soát vốn lỏng lẻo hơn.

Ghi nhớ những mục tiêu này, Chính phủ Trung Quốc mới đây đã phá giá đồng nhân dân tệ ở mức khiêm tốn – cho tới nay khoảng 3%. Mức giảm này có lẽ là quá nhỏ tới mức không thể làm thay đổi đáng kể cán cân thương mại của Trung Quốc với châu Âu hoặc Mỹ. Nhưng nó ra tín hiệu cho một sự chuyển dịch sang một tỷ giá hối đoái hướng về thị trường nhiều hơn. Nguy cơ trong tâm trí các nhà đầu tư, nhà quản lý và quan chức chính phủ là các thị trường tiền tệ – hay các đồng tiền do chính phủ quản lý bị các lực lượng thị trường vùi dập – thường phát triển quá đà và vượt quá các giá trị cơ bản.

Khi Chính phủ Trung Quốc sử dụng chính sách tiền tệ để cố gắng làm dịu thị trường, các cải cách ở cấp vi mô phải được tiếp tục. Trung Quốc phải triển khai các công nghệ mới khắp các ngành công nghiệp, trong khi cải thiện giáo dục, đào tạo và sức khỏe của người lao động. Hơn nữa, Trung Quốc cần đẩy nhanh các nỗ lực của mình để gia tăng tiêu thụ nội địa, điều mà, với tư cách là một bộ phận đóng góp cho GDP, đang ở mức quá thấp so với của các nước khác. Điều này có nghĩa là giảm tỷ lệ tiết kiệm cao chưa từng thấy, một phần lớn trong số đó đổ dồn về các doanh nghiệp nhà nước. Để các công ty tư nhân và hộ gia đình thay thế đầu tư do nhà nước đi đầu như là những động lực chính cho tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải giảm cổ phần của mình trong các doanh nghiệp lớn và cho phép nhiều lợi nhuận hơn được trả trực tiếp cho các cổ đông, trong khi cung cấp nhiều lợi nhuận hơn từ cổ phần còn lại của mình cho các công dân.
Sự chuyển dịch khỏi sự kiểm soát quá mức của nhà nước cũng nên bao gồm việc thay thế các trợ cấp về giá và trợ cấp cho các ngành công nghiệp được ưu tiên bằng sự hỗ trợ có mục tiêu cho người lao động có thu nhập thấp và đầu tư lớn hơn vào vốn con người. Ngoài ra, Trung Quốc phải giảm bớt sự tùy tiện trong quản lý hành chính, đưa ra quy định hợp lý, có thể dự đoán được để giải quyết sự độc quyền tự nhiên và các tác động ngoại vi.

Quay trở lại mức độ vĩ mô, Trung Quốc cần phân phối lại các trách nhiệm và nguồn lực giữa nhiều cấp khác nhau của chính phủ, nhằm tận dụng lợi thế tương đối của họ trong việc cung cấp các dịch vụ và tăng thu nhập. Và đất nước phải giảm dần gánh nặng nợ của mình, mà hiện vượt quá mức 250% GDP.

Điều may mắn khi đối mặt với những thách thức điều chỉnh khó khăn đang ở phía trước, dự trữ ngoại tệ ở mức 3.600 tỷ USD của Trung Quốc có thể được sử dụng như là lớp đệm trước những thiệt hại không thể tránh khỏi. Nhưng Trung Quốc cũng phải tránh quay trở lại sự kiểm soát lớn hơn của nhà nước đối với nền kinh tế – một khả năng thoáng hiện ra trong phản ứng vụng về của chính quyền đối với sự điều chỉnh giá chứng khoán. Cách tiếp cận này cuối cùng cần được dứt khoát từ bỏ, trước khi nó gây ra bất cứ thiệt hại nào đối với cuộc tìm kiếm sự ổn định và thịnh vượng trong dài hạn của Trung Quốc./.

Theo: Is China Falling (Syndicate Project)