Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

Vì sao Trần Đức Thảo chọn triết học?

FB Nam Nguyen

(Câu hỏi rất hay mà tôi mãi tò mò: tài năng như Trần Đức Thảo học môn gì chả được, sao lại học triết? Triết gia có gì khác các nhà bác học của các bộ môn khác không? Một số suy nghĩ, kết hợp với tư liệu của tác giả Le Dan Thu Thuy và Lê Tâm)

Bác Thảo ôn lại thời niên thiếu, rồi phân tích cho thấy mọi sự đã như được cấy vào trong tiềm thức từ lúc còn non trẻ. Lúc ấy, sau khi đã đậu tú tài phần một, học sinh phải chọn một trong ba ban để chuẩn bị thi tú tài phần hai tức là chọn một trong ba lớp học cuối của bậc trung học: hoặc ban toán, hoặc ban khoa học tự nhiên, hoặc ban triết. Thảo đã chọn lớp triết, tức là dự tính sau này sẽ theo học ban văn chương ở bậc Đại học. Bởi đã có chút thành tích về luận văn, Thảo có dự tính sau này sẽ học chuyên về những khoa nhân văn mà mình ưa thích.

Nhớ lại lúc thi môn viết của tam cá nguyệt cuối niên học, giáo sư Ner, trả lại bài luận triết vừa chấm. Bài của Thảo đứng đầu như thường lệ, nhưng với điểm cao không ngờ: 16 trên 20! Thông thường Thảo chỉ đứng đầu với điểm 13 hay 14 điểm là cùng. Lần ấy, Thảo còn nhớ rõ, đề thi là bình giải một câu của Léon Bourgeois: “Danh dự cũng có thể là một nền tảng của đạo đức”.

Cả lớp, trừ Thảo, đều dài dòng tìm cách minh chứng câu đó với những bằng chứng, điển tích, nêu ra các hành động mưu tìm danh vọng qua các công trình vĩ đại, các chiến thắng vinh quang của những vĩ nhân thường thấy trong lịch sử thế giới. Tất cả như đã hành động vì danh dự để mang lại vinh quang cho xứ sở. Riêng chỉ có Thảo là đã bình bàn theo hướng khác hẳn.

Thảo chuẩn bị vào để bằng cách định nghĩa, phân tích kỹ khái niệm danh dự về mặt tâm lý và xã hội để chỉ ra rằng danh dự là một thuộc tính được ban tặng cho con người, từ bên ngoài, nghĩa là một giá trị do người đời khen tặng, chứ bản thân không thể trực tiếp đi tìm… mà lấy được. Danh dự chỉ đến với những con người sống đức hạnh, có lương tri, biết hoàn thành trọn vẹn công việc của mình, dù đấy là một công việc khiêm tốn; Như thế thì mọi người đều có thể có danh dự, chứ danh dự không phải là riêng của những kẻ có chức, có quyền trong xã hội. Nhưng do ngộ nhận mà danh dự đã bị coi là một khả năng kích thích con người có hành động đẹp đẽ, vĩ đại, theo xu hướng khoa trương, phù phiếm bề ngoài, để tạo ra “danh dự”, hay vinh dự cho chính mình. Bởi khi đó danh dự đã bị đồng hoá với danh vọng, vinh dự mà người Pháp gọi là ”les honneurs”. Thông thường, danh vọng có khả năng kích thích tâm lý, có thể làm cho con người u mê đến mức sa đoạ, y như là một thứ thuốc phiện! Người ta đam mê chạy theo danh vọng, tìm vinh dự, rồi tự biến mình thành kẻ khoe khoang, kiêu ngạo, hoang tưởng chạy theo những trò trang trí phù phiếm, hào nhoáng bề ngoài. Tranh đua nhau trên con đường danh vọng thường làm cho mình thành ích kỷ, thấp hèn: muốn dìm mọi người chung quanh xuống, để đề cao mình lên. Danh vọng đã đẻ ra một cấp trên kiêu ngạo, một cấp dưới nịnh nọt… Tệ nạn nịnh nọt cấp trên thường là phải bóp méo, xuyên tạc sự thật. Nó có thể cải trang một người bình thường thành kẻ kiêu căng tự đắc, một nhà chính trị thành một lãnh tụ độc tài, đam mê quyền lực, điên cuồng khao khát danh vọng, quan liêu cửa quyền đến mức hành động, nói năng như cha mẹ của dân, rồi muốn được tôn vinh làm cha dân tộc!

Về mặt tâm lý và xã hội, danh dự phải được hiểu một cách hết sức sáng suốt, hết sức thận trọng để tránh xa những mục tiêu của danh vọng. Danh dự cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm, không thể mua chuộc nó một cách trực tiếp, bằng quyền lực hay tiền bạc, như người ta vẫn đi tìm kiếm danh vọng. Danh dự chỉ tới, một cách gián tiếp từ bên ngoài, với những ai không chủ tâm tìm kiếm nó, nhưng biết sống một cách xứng đáng, có lương tri, sống tử tế với mọi người, sống ngay thẳng, trong sạch ở mọi hoàn cảnh, biết làm tròn nhiệm vụ của mình, dù đó là của một công việc khiêm tốn nhất… sống như thế là sống thật sự có ích cho mọi người, là làm đẹp cho xã hội. Danh dự do đó quả thật là một nền tảng của đạo đức. Nhưng khốn nỗi, người đời vẫn thường nham lẫn danh dự với danh vọng. Do vậy nên danh dự, khi bị hiểu lầm, thì nó lá cái bả khiến con người chạy theo nó, tìm kiếm nó, mua bán nó… để rồi nó biến xã hội thành một môi trường giả dối, háo danh, phù du, ưa phô trương cái mẽ bề ngoài, che giấu cái trống rỗng, kém cỏi, xấu xa bên trong… Không thiếu gì xã hội, trong đó con người ngông cuồng khao khát danh vọng, một xã hội chỉ trọng vọng bề ngoài, chỉ trưng khoe thành tích giả tạo một cách bệnh hoạn. Một thí dụ điển hình về mặt tiêu cực của danh vọng là thói háo danh với bằng cấp. Bằng cấp chỉ là một hình thức chứng thực khả năng. Nhưng nay bằng cấp đã bị coi như là thứ áo mão gấm hoa, loè loẹt màu sắc, để phô trương. Nó đã tạo ra cái thói trưng diện bằng cấp trước cái tên của mình. Tự xưng mình là tiến sĩ này, thạc sĩ nọ, thủ trưởng cơ quan này, giám đốc công sở kia…! Danh dự của một người có học, có tri thức là biết sống không ồn ào, không khoa trương, biết chứng tỏ trình độ bằng kết quả của việc làm, khác hẳn với kẻ đã tự đồng hoá mình với danh dự bằng những hành động khoa trương chức tước, bằng cấp! Từ sự hiểu sai ý nghĩa của bằng cấp mà nó đã bêu xấu con người, làm hỏng nền giáo dục. Tình trạng đó có thể phá hoại xã hội. Khi danh dự bị nhầm lẫn với danh vọng, thì nó đã đưa tới sự gian lận trong thi cử, mua bán bằng cấp, chạy chọt chức tước cứ y như mua bán áo mão màu sắc lòe loẹt hào nhoáng để trưng diện. Bởi khi danh dự bị đồng hoá với danh vọng, thì nó là một cái bả tâm lý, làm hoen ố nhân phẩm, làm mất tự trọng, mất tỉnh táo nên không phân biệt được đầu là giá trị nội tại bền vững đích thực của luân thường đạo lý, đâu là hư danh xấu xa phù phiếm, dối trá khoe khoang bề ngoài…. Danh dự khi bị nhầm lẫn với danh vọng thì có thể đưa con người và xã hội đi rất xa về phía tiêu cực.

Sau khi nêu nhiều bằng chứng về thành tích được coi là danh dự của những người có cuộc sống khiêm tốn và đã bị đời coi thường, bỏ quên… Thảo nhắc lại rằng vì những thành tích vinh quang, đầy danh vọng của những kẻ có quyền lực, mà có người đã được hậu thế ca ngợi, có khi còn được tôn thờ như thánh nhân. Rồi Thảo đưa ra phản đề khá mạnh mẽ: những thành tích mưu cầu vinh quang danh vọng một cách đam mê, cố mưu tìm chiến thắng kiểu Pyrrhus, cố tạo ra những công trình vĩ dại như Kim Tự Tháp, như Vạn Lý Trưởng Thành… Và nhầm lẫn đấy là những thành tích của danh dự. Thực ra là những công trình vĩ đại ấy không thể là biểu tượng cho danh dự với đạo đức, đạo lý! Vì chiến thắng như thế là phung phí xương máu quân lính, vĩ đại như thế phung phí mồ hôi, nước mắt của dân chúng. Chúng không mang tính đạo đức và nhân bản. Vì vậy mà nhiều nhà lãnh đạo quyền lực lớn trong lịch sử chẳng thể trở thành một nhà đạo đức, càng không thể là thánh nhân! Thảo nêu ra những trường hợp đời thường, trong đó không hiếm những lãnh tụ chỉ vì cao ngạo, khát khao được trọng vọng như những Tần Thuỷ Hoàng, Napoléon… là những kẻ đã sẵn sàng phung phí máu xương quân lính, coi rẻ tính mạng, công sức lao động của nhân dân. Những nhà lãnh đạo ấy đã kích thích, thúc ép dân phải trở thành anh hùng, phải trở thành vĩ đại để tạo ra những thành tích vẻ vang, phi thường… cho họ. Vì thế mà hành động mưu tìm danh vọng thường là phản công lý, phản đạo lý. Rồi Thảo kết luận: người ta ưa ca ngợi, một cách nhầm lẫn, những thành tích vinh quang, vĩ đại… mà bỏ qua, hoặc bỏ quên khía cạnh vô nhân đạo, bất công của những hành động đã ép buộc nhân dân thấp cổ bé miệng phải gánh chịu biết bao hi sinh gian khổ để dựng lên nhũng thành tích ấy. Vì đấy, dù thế nào, thì cũng chỉ là những hành động tàn bạo, háo danh, thiếu công lý, thiếu đạo lý. Những thành tích vĩ đại ấy, những kỳ công vinh quang ấy, vì không công lý, không nhân đạo nên nó không thể là trở thành mẫu mực cho đạo đức! Một danh nhân, một ông vua, trong lịch sử, do những thành tích chính trị hay quân sự phi thường, thường được đám nịnh thần tâng bốc, ca ngợi đến mức sùng bái như một vĩ nhân, một thánh nhân, nhưng thật sự đấy chỉ là một lãnh chúa đầy tham vọng, đầy mưu trí nham hiểm, tàn nhẫn, độc ác! Người ta yêu thích danh vọng, tưởng như đó là danh dự. Sự đam mê danh vọng và quyền lực như thế là thiêu huỷ tính nhân bản trong những con ngườí muốn có sự nghiệp vĩ đại. Con người bình thường không chỉ sống vì danh vọng! Trong thực tế, thời có nhiều thành tích, công trình vĩ đại thường là những giai đoạn bi thảm đen tối, đẫm máu trong lịch sử nhân loại! Vì một lẽ giản dị là nó thiếu tính nhân bản, thiếu tính đạo lý. Nhân loại bình thường không sống để đì tìm danh dự trong danh vọng. Nhân loại bình thường không phải toàn là thánh nhân và anh hùng! Bởi con đường của những thánh nhân, của những anh hùng, với ý nghĩa cao cả của nó, là con đường tuẫn đạo, là con đường hi sinh có ý thức vì nghĩa vụ đối với con người. Khác với con đường của những kẻ u mê cuồng tín lao mình vào những hành động đầy máu và nước mắt, dù cho đấy là con đường tạo ra vinh quang, vĩ đại, nhưng đấy không phải là con đường của đạo đức! Trong lịch sứ, cái thời đầy vinh quang, đầy anh hùng của một dân tộc, thường là thời đau đớn đầy hi sinh, gian khổ, đầy máu và nước mắt, đầy hận thù và tội ác… rất phản đạo đức, phản con người… vì thời ấy bắt đám cùng dân phải trà giá bằng mồ hôi, nước mắt, bằng xương máu và tính mạng! Danh dự và đạo đức thực ra là những giá trị cộng sinh tự nhiên, chúng không phải là những ỉhuộc tính chỉ dành cho những vĩ nhân. Trong thực tế, danh dự là một giá trị kín đáo của con người nói chung, trong những hoàn cảnh sống bình thường, khiêm tốn trong xã hội, nên người ta không thấy, vì ít được ai để ý tới. Xưa nay, người đời chi nói tới, chỉ đề cao danh dự của những ông lớn có đầy danh vọng. Do vậy mà chúng ta dễ ngộ nhận, khi đọc tiểu sử của những vĩ nhân, mà không thấy được những tấm gương sảng về mặt đạo đức trong đám người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chính ở nơi những mẫu người khiêm tốn ấy, ta mới thấy rõ được rằng danh dự quả thật là nền tảng của đạo đức. Trong giá trị danh dự âm thầm, khiêm tốn đó, mới thấy người đời sống như thể đích thực là có đạo đức!

Khi chấm bài, bên lề phần kết luận, giáo sư Ner đã phê: “Có nhiều ý triết lý!” Bài của Thảo được đọc cho cả lớp nghe. Sự khen ngợi đó đã vĩnh viễn in sâu vào trí óc non nớt của Thảo. Người thày dạy triết còn nhấn mạnh thêm: ai cũng có thể cố học để trở thành bác sỹ, kỹ sư. Nhưng không phải ai cũng có thể học để trở thành một triết nhân. Đạt đỉnh cao trong triết học đòi hỏi phải có bộ óc minh triết, mẫn tuệ hơn người. Trong nhân loại, suốt trong chiều dài lịch sử, triết nhân chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ở Pháp kẻ theo học ban triết ở Đại học đều được nể trọng vì có bộ óc minh triết hơn người. Thảo nghe vậy, khoái lắm, nhớ mãi...

Sau này trong cuộc đời ông đã nhiều phen phải đưa ra quyết định liên quan đến đạo đức, danh dự; và ông đã thể hiện được khí tiết của nhà triết học hàng đầu. Trần Đức Thảo, khi cần cũng đã tỏ ra có khí phách của một người con chân chính của dân tộc Việt Nam anh hùng, người triết gia đó khi cần cũng biết cầm súng. Sau khi Hồ Chủ Tịch tuyên bố độc lập ngày 2/9/1945, trong khi toàn dân Việt Nam đang say sưa với lời tuyên bố lịch sử đó, thì bọn thực dân Pháp đã chuẩn bị cho Leclerc (vị tướng nổi tiếng của nước Pháp đã chiếm lại thủ đô Paris năm 1945 lúc đó còn đang bị phát xít Đức chiếm đóng) cầm đầu một đội quan Pháp và lê dương hùng mạnh để chiếm lại Sài Gòn bằng thuỷ lục không quân… Bà con Việt Kiều ta ở Paris rất phẫn uất, và một sáng ngày tháng 9 năm 1945, Trần Đức Thảo đã cùng với vài chục anh em lao động việt kiều ở Paris mở một cuộc họp báo đê tỏ rõ sự phẫn uất này. Khi một nhà báo hỏi: nếu Leclerc đổ bộ Sài Gòn thì người dân Việt Nam sẽ đối xử như thế nào? Trần Đức Thảo trả lời ngay: “Chúng tôi sẽ nổ súng!” và ngay sau câu trả lời đó cảnh sát Paris đã bắt Trần Đức Thảo và mấy chục anh em lao động dẫn vào tù mặc dù quần chúng la ó phản đối. Thảo ở tù mấy tháng như một người phạm tội vào loại trọng tội lớn nhất của Pháp là tội đe doạ nền an ninh của nước Pháp. Sau vài tháng giam tù không xử xét nhưng cũng bị đối xử tệ bạc trong tù, nhờ ở ngoài Việt Kiều và quần chúng tốt Pháp biểu tình, la lối phản đối và cũng nhờ tin phái đoàn Hồ Chủ Tịch sắp qua Paris để thương thuyết nên Trần Đức Thảo và anh em lao động mới được ra tù…

Nhìn lại cuộc đời vinh quang và đắng cay muôn phần của ông (mà các bạn chắc đều đã biết) và của một số triết gia thế kỷ 20 khác, tôi hiểu được rằng thời đại này triết gia đúng nghĩa không chỉ đắm mình trong thư viện hay viết lách những chuyện giáo điều, mà còn phải hành động, và làm tấm gương cho thế hệ mình. Quay lại câu chuyện về Sartre-đối thủ của Thảo trong cuộc kiện cáo lịch sử, ông đã thể hiện điều đó hết mình trong quãng đời còn lại, chứ không như đánh giá quá nặng của triết gia Thảo là “mô-ve”!

Sartre tốt nghiệp Sư phạm Paris trước Thảo nhiều năm, sớm trở thành một trong những nhà triết gia hàng đầu của nước Pháp, cùng với người bạn gái chung chí hướng và rất nổi tiếng Simone de Beauvoir. Là những người đại diện ưu tú nhất cho chủ nghĩa hiện sinh ở Pháp, nhưng cuộc đời họ không chỉ có lối sống phóng túng hay tiệc tùng hào nhoáng-cả cuộc đời họ, họ luôn công khai ủng hộ cho phe yếu, những kẻ bị áp bức. Từ thời Đức quốc xã chiếm đóng Pháp, họ đã đứng về hàng ngũ chống phát xít quyết liệt. Sau này họ cùng nhau lập ra tạp chí “Thời đại mới”. Họ chống lại hình thức thực dân kiểu mới ở Algeria, chống các hình thức tra tấn, chống bạo lực của kẻ mạnh-chính là chính phủ mới của Pháp. Sau nhiều lần bị đe dọa trực tiếp, bọn dân tộc chủ nghĩa vũ trang của Pháp đã 2 lần giật mìn nổ tung căn hộ của Sartre ở Paris, và 5 lần dùng vũ lực chiếm tòa soạn “Thời đại mới) (có thể liên tưởng đến sự kiện Charlie Hebdo mới đây...). Từ 1953 ông đã là thành viên của Hội đồng Hòa bình thế giới.

Sartre - cũng như rất nhiều tri thức khác- rất ủng hộ chính quyền cách mạng ở Cuba, ủng hộ hết mình Castro và Che Gevuara (và “tình cảm” này chỉ chấm dứt vào 1971 khi Cuba bỏ tù nhà thơ Padillia vì đả phá chế độ...). Ông và Simone tham gia điều trần về diệt chủng tại Việt Nam, Algeria, ủng hộ những người có ý thức hệ khác ở CCCP, chống lại việc Liên Xô đàn áp Hungary 1956, chống đối việc Liên Xô đưa quân vào Praha ...Ông chống lại chiến tranh Việt Nam từ cả hai phía (Mỹ và Bắc Việt)!

Là nhà triết học đồng thời là nhà văn lớn, vì tự do trong hành động và sáng tác, ông luôn từ chối những giải thưởng, để không bị bất cứ áp lực nào trong suy nghĩ và hành động. 1945 ông từ chối Huân chương Danh dự của Pháp, 1964 ông từ chối giải thưởng Nobel về văn học...Tuy luôn thẳng thừng chỉ trích chế độ Xô viết, nhưng một trong những lý do buộc ông từ chối giải Nobel là “khuynh hướng bài xích Liên Xô rõ rệt của Hội đồng xét giải”. Cả cuộc đời, ông luôn là người tả khuynh!

Kể cả khi đã nhiều tuổi, Sartre vẫn đi đầu trong phong trào biểu tình của sinh viên Paris (thực ra ông là linh hồn của phong trào này!). Một lần ông bị bắt, toàn giới sinh viên nổi giận, De Gaullois đã ra lệnh thả ngay, vì “ở nước Pháp này những người như Voltaire không bao giờ được bắt!”. Vào năm 1968 khi có cuộc cách mạng nổ ra tại Pháp, sinh viên chiếm lĩnh đại học Sorbonne, người duy nhất được sinh viên mời vào trường, đó là Sartre!

So sánh cuộc đời của hai triết gia kiệt xuất đều là cựu sinh viên từ trường Sư phạm Paris này, ta có thể thấy rất vài điểm khác biệt: Sartre nhiều lần thay đổi quan điểm chính trị, triết lý còn Trần Đức Thảo thì không; Thảo chết trong cô đơn hoàn toàn, còn đám tang Sartre có 50000 người dân Paris đã tham gia. Họ đều xứng đáng là những triết gia kiệt xuất của thế kỷ 20, không chỉ vì tài năng vượt trội của mình, mà đầu tiên, vì họ đã là những người dũng cảm!